Với
truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, trong tâm thức của mỗi người con đất Việt
luôn muốn tìm về những chốn tâm linh, như: đình, đền, chùa, miếu, lăng tẩm, nơi
thờ tự … để thắp nén tâm hương tri ân các bậc tiền nhân. Tại những nơi này,
chúng ta được chiêm ngưỡng những đồ án trang trí vô cùng đẹp mắt. Trong muôn
vàn hình thù độc đáo ấy, nổi bật nhất là hình các “linh vật" rất quen thuộc trong
dân gian, đó là nhóm "Tứ linh", gồm: Long (rồng), Lân, Quy (rùa), Phượng
và thêm bốn con vật khác là Ngư (cá chép), Bức (con dơi), Hạc, Hổ, gọi chung là
“bát vật” được các nghệ nhân dân gian thể hiện qua nghệ thuật trang trí rất
sinh động và linh thiêng.
Đặc biệt, chúng ta thấy rất nhiều tranh,
ảnh, điêu khắc, đồ thờ cúng...có hình ảnh chim Hạc. Hình tượng chim Hạc có gì
đặc biệt và ảnh hưởng như thế nào đến văn hóa tín ngưỡng của người phương Đông
nói chung và Việt Nam nói riêng? Mỗi chúng ta có nên hay không sử dụng
những văn hóa phẩm chim Hạc để giúp tạo ra những điều an lành tốt đẹp trong
cuộc sống?
Ban thờ Công
đồng Hoàng đế - đền Trần – phường Lộc Vượng – TP Nam Định
Hạc, Rùa đều là những linh vật được con người
yêu quý và mang nhiều đức tính tốt. Hình tượng chim Hạc thiêng thường gắn liền
với Rùa. Bên cạnh ý nghĩa của đôi Hạc thờ, nhiều người cũng thắc mắc tại sao
hình ảnh chim Hạc thường là cưỡi trên lưng Rùa hoặc ngậm ngọc, ngậm hoa sen? Lý
giải cho thắc mắc này, GS Trần Lâm Biền – một chuyên gia trong
lĩnh vực văn hóa – dân gian, đã có những chia sẻ và lý giải về vấn đề này như
sau:
“Chim Hạc đầu đội công lý, mắt
biểu trưng cho mặt trời và mặt trăng, cánh là gió, lông là cây cỏ, còn chân có
ý nghĩa là đất. Bởi vậy, đây là một linh vật biểu tượng cho không gian, cho bầu
trời và lực dương.
Ngoài ra, những con chim Hạc
được thiết kế với chiếc mỏ há ra đang ngậm viên ngọc thể hiện sự trong sáng,
còn biểu trưng cho đạo pháp.
Còn Rùa thuộc phần âm, biểu
trưng cho đất. Đó vẫn là tư duy nông nghiệp, âm dương đối đãi tồn tại từ bao
đời nay ở dân tộc Việt ta. Cho nên, hình ảnh chim Hạc đứng trên lưng Rùa về mặt
nào đó, chính là biểu tượng của sự trường tồn.”
Theo truyền thuyết, Rùa và chim
Hạc là 2 loài vật rất thân nhau. Rùa – loài vật dưới nước, biết bơi. Chim Hạc
loài vật trên trời, biết bay. Khi trời làm mưa lũ cả một vùng rộng lớn, chim Hạc
không biết bơi, Rùa đã cho chim Hạc cưỡi lên lưng, giúp đưa chim Hạc di chuyển
khỏi vùng lũ tới vùng đất cao, khô ráo. Ngược lại, khi hạn hán chim Hạc giúp Rùa
đi tìm tới các ao hồ. Như vậy hình ảnh đôi chim Hạc cưỡi lưng Rùa còn thể hiện
cho lòng chung thủy, sự tương trợ lẫn nhau vượt qua sự khắc nghiệt của thiên
nhiên.
Chim Hạc đồng thờ còn mang ý
nghĩa tượng trưng cho những mong ước phát triển của con người được thể hiện qua
hình dáng cao lớn, mỏ dài, nhọn, như mũi tên của sự vận động. Chim Hạc ngậm hoa
sen tượng trưng cho sự giác ngộ, vươn tới ánh sáng, thoát khỏi u tối.
Không những thế với một
nước gắn liền với nền công nghiệp lúa nước như Việt Nam, hình ảnh chim Hạc vô
cùng gần gũi gắn liền với sự chịu thương, chịu khó của con người Việt Nam. Hình
tượng chim Hạc còn mang đến ý nghĩa về cuộc sống thanh cao, viên mãn. Chim Hạc
là loài chim có tuổi thọ kéo dài, sống khỏe mạnh trong mọi hoàn cảnh và thời
tiết nên thường mang đến ý nghĩa trường thọ. Việc sử dụng chim Hạc trên ban thờ
cũng giống như một lời chúc bình an, sức khỏe cho các thành viên trong gia
đình. Đây cũng là cách người Việt nhớ đến cội nguồn, gốc rễ, của mình.
Bên cạnh đó, đôi chim Hạc thờ còn được sử
dụng như một liệu pháp để “trấn phong thủy”, ngăn chặn tà khí, điều xấu vào
nhà. Đôi chim Hạc được đặt ở vị trí liên kết tâm linh huyền bí với thế vững
chắc. Với mong ước gia đình luôn hạnh phúc, hòa thuận để vượt qua mọi chuyện
khó khăn trong cuộc sống.
Từ thời kì các triều đại phong kiến, chim Hạc
đã được xem là biểu tượng của sự nghĩa
hiệp, quân tử, ưu tú… Vì lý do này, triều phục của các quan sẽ thêu hình chim
Hạc để biểu tượng cho cốt cách của người sĩ phu “đầu đội trời, chân đạp
đất”.
Trong nghệ thuật tạo hình, chim Hạc thường được quan sát đầu tiên,
người ta nhìn hình ảnh của nó mà thưởng thức, mà đánh giá tổng thể nội dung và
hàm ý của bức họa.
Trong nghệ thuật chạm khắc, chim Hạc cũng thường
xuất hiện gắn liền với cây Tùng nên được gọi là Hạc Tùng,
nó trở thành biểu tượng cho sự cao sang - an lạc, khí chất trường thọ, bản
lĩnh trước nỗi trầm luân. Khi người ta khắc họa Tùng và chim Hạc thì bức tranh
lập tức minh chứng cho chí khí, cốt cách của người quân tử, là sự trường tồn
bền vững, là khao khát sải cánh giữa không trung, và là dũng khí đương đầu với
gian truân, thử thách.
Trong hình tượng trang trí, chim Hạc có kích thước lớn, cao với
ước mong phát triển, thân chim Hạc hình khum, tượng trưng cho bầu trời, chân
cao như cột chống trời.
Trải qua
bao đời, nghệ thuật trang trí các công trình kiến trúc tâm linh được thể hiện
rất phong phú, sinh động. Hình tượng các con vật, hoa lá, cỏ cây, tứ linh, bát
vật ... được cách điệu thành các đồ án trang trí, vừa thích hợp với bố cục
trang trí của không gian kiến trúc truyền thống, có tính thẩm mỹ cao, vừa mang
sự linh thiêng trong tín ngưỡng văn hóa dân gian, đậm nét bản sắc văn hóa Việt
ngàn năm văn hiến.
Tuy lịch
sử, xã hội đã có nhiều biến động, cùng với đó, tư duy thẩm mỹ trong kiến trúc
qua từng thời kỳ cũng có nhiều đổi thay, song những đồ án truyền thống về tứ
linh, bát vật nói riêng cũng như nghệ thuật trang trí và kiến trúc truyền thống
tại các đình, đền, chùa … vẫn được gìn giữ và tiếp nối từ thế hệ cha ông đi
trước, đã góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Đến với
đền Trần Nam Định là đến với vùng đất cổ linh thiêng – nơi phát tích của triều
đại nhà Trần – một triều đại hưng thịnh bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt
Nam, bên
cạnh sự tưởng nhớ, là hành trình trở về với nguồn cội, quý khách
sẽ có dịp chiêm ngưỡng những đôi Hạc thờ -
sản phẩm được đúc thủ công có đường nét tinh xảo, từng nét chạm được
nhấn nhá hài hòa, thể hiện “nét hồn” trong từng chi tiết lông, cánh, mắt,
mỏ, mào,…. do các nghệ nhân làng nghề đúc đồng truyền thống Tống Xá – Ý Yên –
Nam Định thực hiện.
Hạc thờ phổ biến ở đây là các
đôi Hạc đồng cánh cụp, đuôi xoè, được phân chia làm 2 dòng cơ bản:
- Hạc
đặt trên ban thờ có kích thước nhỏ, chầu hai bên đỉnh thờ, kích thước từ 40cm,
50cm, 60cm, 65cm, 70cm... Kiểu dáng Hạc thường là đứng trên mình rùa và
ngậm Hoa sen.
- Hạc đặt dưới đất, phía trước ban thờ thường
có kích thước lớn, phổ biến là 1m27, 1m35, 1m55, 1m76, 1m97, 2m17.... Kiểu dáng
Hạc được tối giản với kiểu đứng trên thân rùa, miệng ngậm viên Minh châu.
Khi cái
nắng hanh vàng của mùa Thu trải khắp không gian, cũng là lúc người dân Nam Định
cùng du khách thập phương với tấm lòng thành kính, háo hức tham dự LỄ HỘI THÁNG
8 tại đền Trần, phường Lộc Vượng, TP Nam Định – kỷ niệm 723 năm ngày hoá của Đức Thánh
Trần (20 tháng 8 năm Canh Tý 1300 - 20
tháng 8 năm Quý Mão 2023). Bởi, “tháng 8 giỗ Cha” từ lâu đã trở thành nét
đẹp tâm linh, mang bản sắc, tín ngưỡng văn hóa của tỉnh Nam Định nói riêng và vùng
đồng bằng châu thổ sông Hồng nói chung.
Sưu tầm, biên tập
Vũ Thị Tuyết Mai
BQL khu DTLSVH Đền Trần
– Chùa Tháp TP Nam Định
Tài liệu tham khảo:
1. Viện Bảo tồn di tích, Hình tượng linh vật trong di
tích kiến trúc, Nxb. Văn hóa dân tộc
2. L. Cadière, Văn hóa, tín ngưỡng và thực
hành tôn giáo người Việt, Nxb Thuận Hóa