Đức vua anh minh Trần Nhân Tông – Người sáng lập
ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Ngài “Tên húy là Khâm, con trưởng của Thánh
Tông, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu, sinh năm Mậu Ngọ (1258),
Nguyên Phong năm thứ 8, tháng 11, ngày 11, được tinh anh thánh nhân, thuần túy
đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng. Hai cung đều
cho là lạ, gọi là Kim Tiên đồng tử. Trên vai bên trái có nốt ruồi đen, cho nên
có thể cáng đáng được việc lớn, ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8
năm, thọ 51 tuổi, băng hà ở am Ngọa Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở Đức Lăng. Vua
nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước, thực
là bậc vua hiền của nhà Trần”
Chùa Phổ Minh, TP Nam Định theo tương truyền nơi
đây đặt một phần xá lỵ của đức Vua Phật Hoàng Trần Nhân Tông
Tháng 8 năm Kỷ Hợi (1299), Hoàng đế Trần Nhân
Tông từ phủ Thiên Trường xuất gia vào núi Yên Tử tu khổ hạnh, lấy đạo hiệu
Hương Vân Đại Đầu Đà, đánh dấu sự ra đời của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Kể từ
đó, Thiền phái này phát triển lên đỉnh cao với ba Thiền sư kiệt xuất là Nhân
Tông, Pháp Loa và Huyền Quang gọi chung là Trúc lâm Tam Tổ.
Ở Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, thiền có nội dung
và phương pháp hoàn toàn mới so với các trường phái trước đây cũng như bản chất
ban đầu của nó. Thiền giờ đây không còn là lánh đời, ép xác khổ hạnh, cũng
không phải chỉ là trầm tư mặc tưởng mà thiền được thể hiện qua chính đời sống
hàng ngày như ăn tự nhiên, sống hòa hợp với thiên nhiên, với cuộc sống đời thường
và làm những điều tốt, những việc làm mang ý nghĩa xã hội lớn lao. Thiền phái
Trúc Lâm đã kế thừa và phát huy giá trị tích cực của Phật giáo Ấn Độ và Trung
Hoa, hội tụ cả triết lý của Nho giáo và Đạo lão. Tư tưởng triết lý và văn hóa đạo
đức của Thiền phái Trúc Lâm đã phát huy ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống như một
động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội, đồng thời chi phối hệ tư tưởng và văn học
nghệ thuật của nước ta thời Trần và của cả các triều đại phong kiến Việt Nam
sau này. Với việc lập ra phái Trúc Lâm, Hoàng đế Trần Nhân Tông đã thống nhất
các Thiền phái tồn tại trước đó và toàn bộ Giáo hội Phật giáo đời Trần về một mối.
Tư tưởng nhập thế của thiền phái Trúc Lâm thể
hiện trong mọi hành động của cá nhân và tổ chức Giáo hội Trúc Lâm, Trần Nhân
Tông luôn hành động với mục đích vì dân tộc, vì nhân dân. Ngay trong sự kiện chọn
nơi xuất gia cũng thể hiện điều đó. Trần Nhân Tông chọn Yên Tử làm nơi tu hành
lý do chính là vì khu vực Yên Tử nằm trên yếu lộ giao thông thủy bộ với phương
Bắc, người đi lại dập dìu và có thể ở đây mà xem được động tĩnh bên ngoài để hướng
đến xây dựng một xã hội Đại Việt phồn vinh, vững bền muôn thủa.
Theo Trần Nhân Tông thì Bụt ở trong bản thân
mình, không phải tìm đâu khác bên ngoài. Nghĩa là gốc “bản” ở chính trong tâm
ta. Bụt là ta. Ta ở đây là cái ta đã giác ngộ, chứ không phải cái ta ở mọi người.
Điều này được Ông nói tới trong bài Cư trần lạc đạo phú: “Tâm chính là Phật”,“Con người ta ai cũng
có Phật tính, ai cũng có thể thành Phật”:
Bụt ở trong nhà
Chẳng phải tìm xa
Nhân khuây bản nên ta tìm Bụt
Đến biết hay chỉn Bụt là ta .
Thiền phái Trúc Lâm không phân biệt người tu ở
chùa hay tu tại gia. Cả hai hình thức tu tập đều hướng tới mục tiêu chung là
tìm lại, thức tỉnh “bản tính Phật” trong tâm của từng cá nhân bằng con
đường từ bi và trí tuệ; gắn chặt với đời để đến bến bờ giải thoát. "Ở
đời vui đạo" là lối sống thanh tịnh và an lạc của Đệ Nhất Tổ Trúc Lâm
và các Thiền sư, cư sĩ Trúc Lâm khi đạt đạo. Lối sống này đã tạo nên tinh thần
nhập thế của Thiền phái Trúc Lâm. Đó là sự thống nhất một cách tự nhiên và sinh
động, không biệt lập, tách rời cuộc sống đời thường
Cũng như các triều đại phong kiến trong lịch sử,
đối với Nhà Trần, trong buổi đầu mới thành lập, việc xây dựng một nền văn hóa
trong đó có tôn giáo mang bản sắc riêng, thoát khỏi sự lệ thuộc về ý thức hệ với
nước ngoài, làm công cụ thống nhất quyền lực và duy trì trật tự xã hội đã đặt
ra vô cùng cấp bách. Với mục đích đó, về mặt tôn giáo, nhà Trần đã lựa chọn Thiền
tông làm ý thức hệ tiêu biểu, nhưng thay đổi nội dung của các Thiền phái trước
đây để đáp ứng các yêu cầu của đất nước. Khác với các thiền phái khác, Trúc Lâm
Yên Tử của Đại Việt mang đậm tinh thần nhập thế, muốn tìm con đường giác ngộ
không phải từ bỏ thế gian này mới giác ngộ được. Với tinh thần đạo pháp thì người
con Phật càng phải dấn thân vào cuộc sống, vui với niềm vui của đất nước, đau với
nỗi đau của dân tộc, nhưng khi thanh bình thì vẫn trở về với cuộc sống tu hành
thoát tục.
Trong tư tưởng thiền của Trần Nhân Tông thì thiền
nhập thế không chỉ là sống hòa đồng giữa cuộc sống trần tục mà thiền nhập thế
còn là sống thiền với tất cả hoạt động hàng ngày, trong đó có cả hành động đánh
giặc cứu nước. Bởi quan niệm đánh giặc cứu dân, cứu nước cũng là thiền nên Trần
Nhân Tông nhập thế một cách tích cực. Nhờ đó, Ông đã tập hợp được sức mạnh toàn
dân, nay lại trực tiếp chỉ huy trận đánh làm cho sức mạnh chống giặc của Đại Việt
được nhân lên gấp bội. Trong chiến tranh, Trần Nhân Tông bôn ba khắp nơi không
nề hà hiểm nguy gian khổ đến mức một chiếc thuyền con lánh giặc, lúc suốt ngày
nhịn đói; Bởi Trần Nhân Tông chiến đấu với giặc cũng là chiến đấu trong trạng
thái thiền nên ông rất bình tĩnh và sáng suốt trong chỉ đạo các tướng lĩnh cũng
như trực tiếp chỉ huy các trận đánh. Cũng bởi vậy mà ông đã khai thác được hết
sức mạnh của toàn dân, toàn quân để chiến đấu với kẻ thù, khiến cho chúng phải
thất bại. Tuy nhiên, trước thủ cấp của tướng giặc, Trần Nhân Tông lại cảm thấy
thương xót cho chúng, bởi theo Ông, tướng giặc vì vô minh mà lâm vào tội ác, đến
nỗi bị đọa chết, không được toàn thây, Ngài liền cởi áo bào đang mặc, quẳng cho
bọc thủ cấp Toa Đô. Sau khi thắng trận trở về, bằng tấm lòng từ bi của Phật
giáo, Trần Nhân Tông đã ban lệnh đại xá thiên hạ, miễn tô dịch toàn phần cho những
nơi bị giặc cướp phá. Lại còn tiến hành bình công toàn dân chứ không riêng gì
các tướng sĩ. Trần Nhân Tông đã lấy tâm Phật mà đối nhân xử thế trong vai trò
làm vua. Là một minh vương, Trần Nhân Tông không hề dùng quyền lực để buộc quần
thần vâng mệnh mà Ngài luôn dùng tâm để thu phục nhân tâm. Với Trần Hưng Đạo, một
người bị giao trọng trách cướp ngôi thì Trần Nhân Tông luôn tin dùng, vẫn giao
binh quyền, luôn hỏi kế sách chống giặc. Với bọn công hầu lén lút đầu hàng giặc
đáng tội chết mà Trần Nhân Tông vẫn thủ tiêu bằng chứng, không xem. Với quan lại
mắc tội, Trần Nhân Tông phạt nhưng không cách chức, Ngài dùng công danh để ràng
buộc cũng như khích lệ tinh thần họ khiến họ phục vụ hết mình cho triều đình.
Nhờ những chính sách mềm dẻo, độ lượng, khoan dung mà Trần Nhân Tông đã xây dựng
được một vương triều Đại Việt vững mạnh.
Đức Phật Hoàng Nhân Tông đã xây dựng thành công
“thế trận lòng dân” để huy động sức mạnh toàn dân, toàn diện chiến
thắng giặc ngoại xâm, bảo vệ non sông gấm vóc, ghi mốc son sáng chói trong lịch
sử dân tộc ta. Với trí tuệ và đạo lực của vị Thiền sư đắc đạo, trong công cuộc
xây dựng đất nước, Ngài đã thống nhất thể chế chính trị theo hình thức trung
ương tập quyền; lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tâm của thiên
hạ làm tâm của mình để thu phục nhân tâm, động viên nhân dân đồng lòng, đồng sức
vì mục tiêu kiến thiết quốc gia, duy trì sự ổn định và phát triển toàn diện
trên mọi lĩnh vực xã hội. Cảm hứng đó bắt nguồn từ tinh thần Phật giáo Đại Việt
do chính Ngài hình thành, phát triển đã trở thành một “linh khí” biến cả dân tộc thành một khối đại đoàn kết vững
chắc, đưa đất nước vươn tới đỉnh cao hưng thịnh vào thời kỳ đó. Người làm vua
là để mang thái bình, thịnh vượng cho toàn dân Đại Việt, chứ không phải để hưởng
thụ cho bản thân mình.
Sau khi đã xuất gia tu hành, từ chối mọi xa hoa
vương triều để tu hạnh Đầu Đà, Ngài Nhân Tông đã đi tới nhiều nơi để được nghe,
hiểu cuộc sống của nhân dân và thuyết pháp, giáo hóa, cứu độ chúng sinh, xây dựng
Tịnh Độ nơi trần thế. Mặc dù khác nhau ở điểm xuất phát, nhưng Phật Hoàng cũng
giống Đức Phật Thích Ca là từ bỏ cung vàng điện ngọc, dấn thân vào con đường tu
hành nhằm phát huy tâm linh đến tột đỉnh. Ngài đã để lại cho đời sau
một di sản đồ sộ về tư tưởng giáo lý triết học và phương pháp tu hành với tinh
thần nhập thế:
"Ở đời vui đạo khéo tùy duyên
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Trước cảnh không tâm chớ hỏi thiền"
Đoạn kệ trên nói lên tinh thần nhập thế tùy
duyên mà hành đạo trong bốn quan điểm: 1. Hãy nên sống hòa mình với đời không
chấp trước, mọi sự ở đời đều có nhân duyên của nó và hãy tùy duyên mà sống vui
với đạo. 2. Hành động tùy duyên tức là làm việc cần phải làm, đúng lúc, đúng thời
không trái với quy luật tự nhiên. 3. Tự tin nơi chính khả năng của của mình mà
không tìm cầu một sự trợ lực nào từ bên ngoài. 4. Khi tâm đã sáng tỏ thì không
còn nô lệ vào những điều trong giáo lý và cũng không lệ thuộc kinh điển.
Phật Hoàng Nhân Tông đã hoàn thành một nhiệm vụ
đặc biệt, đó là thống nhất các hệ phái Phật giáo có trước và khai sáng dòng Thiền
Trúc Lâm Yên Tử. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, đạo Phật
được thống nhất và thành lập một Giáo hội duy nhất với một Thiền phái duy nhất
của người Việt Nam, là Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và được xây dựng thành hệ
thống chặt chẽ từ trung ương đến địa phương, đề cao tư tưởng nhập thế, gắn bó
giữa đạo và đời, cứu nhân độ thế bằng chính những việc làm có ích với đời. Tính
độc đáo của Phật giáo thời Trần chính là ở chỗ luôn chủ động gạn lọc, tiếp thu
cái hay, gạt bỏ cái dở để sáng tạo ra một xã hội luôn đổi mới, trẻ trung, cập
nhật với thời thế.
Sau hơn 700 năm phát triển, đến nay, thiền phái
Trúc Lâm Yên Tử đã chứng tỏ là dòng Thiền mang đậm dấu ấn của văn hóa Đại Việt,
mà đỉnh cao của nó là tư tưởng nhập thế, đạo không tách với đời. Biểu hiện
sinh động nhất của dòng thiền này là chủ trương nhập thế tích cực hơn bao giờ hết
để phật tử vừa xây dựng một đời sống theo đạo lý Thiền, vừa làm tròn trách nhiệm
của một công dân đối với việc xây dựng và phát triển đất nước. Tinh thần nhập
thế nói riêng, tinh thần Trúc Lâm nói chung đã góp phần giải quyết một loạt vấn
đề lịch sử đặt ra vào thời đại đó và kéo dài tới ngày nay và đồng hành cùng lịch
sử văn hóa dân tộc tới mai sau./.
Sưu tầm
và biên soạn
TRẦN
THỊ THỦY
BQL Khu Di tích LS- VH Đền Trần , Chùa Tháp-TP. Nam Định
Tài liệu tham khảo
1. Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập
2, Nhà xuất bản TP.HCM
2. Lê Mạnh Thát –Toàn Tập Trần Nhân Tông – Nxb
TPHCM
3. Ngô Sĩ Liên – Đại Việt Sử Ký Toàn Thư.