1.Sự hình thành
Trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước, dân tộc Việt Nam tự hào đã xây dựng cho riêng mình một
thiền phái tôn giáo mang đặc trưng riêng có của con người Việt Nam. Đó chính là
Thiền phái Trúc Lâm, một thiền phái nhân văn và gần gũi với cuộc sống của người
dân, do một vị vua Triều Trần khai mở và phát triển, Ông là vị vua thứ ba triều
đại Nhà Trần- Trần Nhân Tông. Ở Ông, không chỉ được biết đến là vị vua anh
minh, một anh hùng dân tộc mà còn là một nhà tu hành mẫu mực.
Căn cứ vào tài
liệu Tam Tổ thực lục, Tam Tổ hành trạng, Thiền Tông bản
hạnh, Thánh đăng lục, chúng ta thấy tiến trình hình thành và
phát triển Thiền phái Trúc Lâm có một bề dày lịch sử. Trong bối
cảnh lịch sử truyền thừa của Thiền phái, Trần Thái Tông,
Tuệ Trung, Trần Thánh Tông được khẳng định là những gương mặt thiền
gia đắc pháp tiên phong đặt nền móng tư tưởng và
kết nối cho Thiền phái Trúc Lâm ra đời. Trần Nhân Tông là
người có công làm cho Thiền phái Trúc Lâm đi vào hiện
thực đời sống sinh họat Phật giáo thiền từ mô
hình hoạt động, cơ cấu tổ chức cho đến nội dung tu
tập và phương thức hành trì được cụ thể hóa. Ông trở
thành vị Tổ đầu tiên của Thiền phái Trúc Lâm, sau đó đại
sư Pháp Loa được Trần Nhân Tông truyền y bát làm Tổ
thứ hai. Và người thứ ba được truyền trao làm Tổ thứ ba chính là tôn
giả Huyền Quang. Cả ba vị này được tôn vinh là Trúc Lâm Tam Tổ.
Vua Trần Nhân Tông tên
thật là Trần Khâm, trước khi đi tu, Ngài trị vì đất nước 15 năm (1278 – 1293),
làm Thái thượng hoàng 15 năm. Sau khi nhường ngôi cho con trai là Trần Anh Tông
năm 1293, ông xuất gia tu hành tại
chùa Khai Phúc thuộc hành cung Vũ Lâm, tỉnh Ninh Bình, sau đó đến tu tại Yên Tử, Quảng Ninh vào năm 1299. Tại đây, Ngài đã
thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy đạo hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng (hay
Trúc Lâm đầu đà). Ông được nhân dân gọi cung kính là “Phật Hoàng”. Chính Ông là
người đầu tiên khơi nguồn, đặt nền móng và hướng đạo, phát triển tư tưởng Phật
giáo, tổ chức giáo hội, đào tạo tăng ni, phật tử. Với việc lập ra phái Trúc Lâm
và thống nhất toàn bộ giáo hội Phật giáo thời Trần về một mối lấy vùng đất Yên
Tử trở thành trung tâm của Phật giáo
Ngài đã đưa Phật giáo Thiền tông lúc bấy giờ trở thành Quốc giáo.Từ đây, Việt Nam thực sự đã
có một dòng thiền Phật giáo của người Việt.
2. Nét đặc trưng của Thiền phái Trúc Lâm
Tháp Phổ Minh – Khu di tích Quốc gia đặc
biệt đền Trần, chùa Phổ Minh-
TP. Nam Định, nơi lưu giữ xá lị đức Phật
hoàng Trần Nhân Tông
Cũng như các triều đại
phong kiến trong lịch sử, đối với Nhà Trần, trong buổi đầu mới thành lập, việc
xây dựng một nền văn hóa trong đó có tôn giáo mang bản sắc riêng, thoát khỏi sự
lệ thuộc về ý thức hệ với nước ngoài, làm công cụ thống nhất quyền lực và duy
trì trật tự xã hội đã đặt ra vô cùng cấp bách. Với mục đích đó, về mặt tôn
giáo, nhà Trần đã lựa chọn Thiền tông làm ý thức hệ tiêu biểu, nhưng thay đổi
nội dung của các Thiền phái trước đây để đáp ứng các yêu cầu của đất nước. Khác
với các thiền phái khác, thiền phái Trúc Lâm của Đại Việt mang đậm tinh thần
nhập thế, muốn tìm con đường giác ngộ không phải từ bỏ thế gian này mới giác
ngộ được. Với tinh thần đạo pháp thì người con Phật càng phải dấn thân vào cuộc
sống, vui với niềm vui của đất nước, đau với nỗi đau của dân tộc, nhưng khi
thanh bình thì vẫn trở về với cuộc sống tu hành thoát tục.
Thiền phái Trúc Lâm đã
mang đầy đủ những đặc điểm ấy. Bằng sự chứng ngộ Thiền lý sâu xa, Trần Nhân
Tông đã lấy tôn chỉ: “Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân
tâm, kiến tánh thành Phật” làm chủ đạo, kết hợp giảng kinh thuyết pháp, giúp
cho người học Phật hiểu sâu kinh điển, chuyển lời kinh chết trong sách thành
những bài kinh sống nơi con người. Thực tế, thời gian Ngài xuất gia đến khi
viên tịch không dài, nhưng trong những năm đó, ngài đã lấy tinh thần Phật giáo
nhập thế, “từ bi hỉ xả” cứu độ chúng sinh bằng cách phát triển đạo pháp, dân
tộc cùng hoà hợp, từ vua Trần Thái Tông đến các vua Thánh Tông…tạo nên mạch
truyền thống và sự phát triển bền vững của đạo Phật thời Trần, tính gắn kết mật
thiết giữa dân tộc và tôn giáo, giữa chính quyền và thần quyền, tạo nền tảng
bền vững cho sự phát triển xã hội.
Thiền phái Trúc Lâm
còn thể hiện đậm bản sắc dân tộc ở chỗ, sau khi đánh đuổi quân xâm lược, đất
nước thái bình thì các Thiền sư trở về với việc tu hành và nghiên cứu để đưa
hiểu biết của mình đến với người dân. Đây là tinh thần nhập thế mà các thiền
phái trước chưa thực hiện được, chính tinh thần này đã tạo nên sức mạnh của dân
tộc Việt và đã đưa Phật giáo phát triển đạt tới đỉnh cao trong lịch sử Việt
Nam. Thiền phái Trúc Lâm đã kết hợp khéo léo giữa lý tưởng Quốc gia và Phật
đạo, vốn là khía cạnh của lý tưởng tôn giáo đại đồng.
Tư tưởng Tam giáo đồng
qui thực sự cũng được hỗ trợ bởi một lý tưởng tôn giáo như thế. Trần Nhân Tông
đã chủ trương đưa thiền phái tích cực dấn thân vào xã hội, xây dựng đất nước
hưng vượng bằng từ bi, trí tuệ và đạo đức của Phật giáo. Ông kết hợp giữa triết
học siêu nhiên của Phật giáo với nhân sinh quan của Nho giáo và vũ trụ quan của
Lão giáo; lấy lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia và lợi ích chúng sinh là yếu tố
cơ bản trong quá trình tu tập của mỗi người. Sáng được tâm là đạt yếu chỉ
thiền, vì vậy người tu thiền cốt phải sáng được tâm của chính mình. Chính thái
độ sống rất trí tuệ Phật giáo của Trần Nhân Tông vừa giải quyết vấn đề giải
thoát của con người vừa giải quyết các vấn đề của quốc gia, xã hội. Như vậy,
tông chỉ Thiền tông rất thực tế và gần gũi với con người, lấy “Chỉ thẳng tâm
người, thấy tính thành Phật”, nhằm đánh thức mỗi người tự sống vươn lên.
Phật tức tâm, ai có
tâm đều có Phật, không phân biệt nam nữ, trẻ già, người trong đạo hay ngoài
đạo, là chân lý bình đẳng với tất cả. Thành Phật là thành ngay trong tâm mình,
không phải thành ở trên núi cao, trên cõi trời xa xôi. Đó là lấy con người làm gốc,
là tôn trọng người, nâng cao giá trị con người, nâng cao sức mạnh của dân
tộc.
Ngài Trần Nhân Tông
cũng thể hiện rất rõ tôn chỉ của mình trong bốn câu kệ cuối của bài phú “Cư
trần lạc đạo”:
“Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói cứ ăn no mệt ngủ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”;
Nghĩa là, người tu
hành tùy duyên nhập thế để làm lợi ích cho đời, nhiều người chưa biết Phật
pháp, chưa biết trong nhà của mình có báu vật mà khai thác.
Có thể nói, Ngài Nhân
Tông, từ ngôi vị Hoàng đế đến ngôi vị Phật hoàng, từ vương quyền đến thần
quyền…trên phương diện nào thì con người Nhân Tông vẫn hiển hiện với tư tưởng,
tình cảm của người con Việt, lấy vận mệnh đạo pháp và dân tộc hoà chung trong
một bản trường ca là Phật giáo Nhập thế. Phật giáo là giáo lý giác ngộ chân
thật, đó là một lẽ thật bình đẳng không phân chia ranh giới Việt Nam hay Nhật
Bản, Ấn Độ....vì "tất cả chúng sinh đều có Phật tánh". Tuy nhiên, ở
Thiền phái Trúc Lâm chúng ta thấy nổi bật những nét đặc trưng của tôn giáo mang
đậm đà bản sắc của nền văn hoá dân tộc Việt Nam, không bị phụ thuộc, lai căng
từ bên ngoài.
Sưu tầm
và biên soạn
TRẦN
THỊ THỦY
BQL Khu Di tích LS- VH Đền Trần , Chùa Tháp-TP. Nam Định