Ông sinh ra tại hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường ( nay thuộc
phường Lộc Vượng, TP Nam Định) vốn xuất thân từ nghề chài lưới, mang trong mình
dòng máu thượng võ của cha ông, rất giỏi nghề sông nước và thạo thủy chiến. Từ
thuở nhỏ ông đã có tướng mạo phi thường, thông minh hơn người, được rèn đúc kỹ
càng, ai cũng khen là bậc kỳ tài, ngày sau ắt kinh bang tế thế. Lớn lên, Trần
Quốc Tuấn, càng thông minh xuất chúng, đọc rộng biết nhiều, văn võ song toàn.
Trong sự nghiệp hiển hách của nhà Trần, Trần Quốc Tuấn có
vai trò đặc biệt quan trọng. Ông là người có đạo đức tiêu biểu của một vị chủ
tướng, luôn nêu tấm gương sáng ngời về lòng trung nghĩa, tinh thần biết dựa vào
sức mạnh của dân trong cả nước, biết gạt bỏ hiềm khích riêng tư, luôn lấy đại
nghĩa làm trọng để đoàn kết tôn thất, triều đình và tướng lĩnh, nêu cao tinh thần
"quyết chiến" không sợ kẻ thù hung bạo.
Trong thời kỳ trước thì mọi tướng lĩnh của các triều đại nước
Việt ta đều theo các bộ binh thư của Trung Hoa. Những bộ binh pháp như Tôn -
Ngô hay Lục Thao Tam Lược đều chứa đựng nhiều cao kiến xuất sắc, nhưng chưa phù
hợp với địa hình, khí hậu, và dân tộc Việt trong các cuộc chiến tranh vệ quốc.
Tác phẩm "Binh Thư Yếu Lược" của ông khai sinh ra
một nền khoa học quân sự thuần Việt, đậm nét nghệ thuật và khoa học cầm quân
mang bản sắc dân tộc sâu sắc.
Khi đề ra hình mẫu của người làm Tướng, Trần Quốc Tuấn phát
xuất từ tư tưởng nhân nghĩa. Lòng trắc ẩn, tình yêu thương theo ông mới đúng là
mục đích cao cả nhất của đời binh nghiệp, dù là binh sĩ hay đại tướng đều phải
thấu suốt cái chính nghĩa này. Binh pháp của Hưng Đạo Vương chép rằng: "Tướng mà che điều gian, giấu điều họa, không nghĩ đến
sự quân chúng oán ghét, tướng ấy chỉ huy mười người. Tướng mà sớm dậy khuya nằm,
lời lẽ kín đáo, tướng ấy chỉ huy được trăm người. Tướng thắng mà biết lo, mạnh
mà giỏi đánh đó là tướng chỉ huy được nghìn người. Tướng mà ngoài mặt hăm hở,
trong lòng ân cần, biết người khó nhọc, thương kẻ đói rét, đó là tướng chỉ huy
được vạn người. Tướng mà gần người, tiến người tài, ngày thường cẩn thận, thành
thực rộng rãi, giỏi việc dẹp loạn, đó là tướng chỉ huy được mười vạn người.
Tướng mà dùng nhân ái đối với kẻ dưới, lấy tín nghĩa để phục
nước láng giềng, trên biết thiên văn, dưới biết địa lý, giữa biết việc người,
coi bốn biển như một nhà, đó là tướng chỉ huy được cả thiên hạ không ai địch nổi".
Trong ba cuộc kháng chiến chống quân Mông- Nguyên. Ông đã chọn đúng người đúng việc tin tưởng và
chuyển tải niềm tự tin đó đến với mọi người, dù đó là binh sĩ, dù đó là tướng
lĩnh, thậm chí đến thái thượng hoàng hay hoàng đế cũng được ông chuyển tải niềm
tự tin ấy mới có thể vững vàng trước thử thách của non sông. Ông đã huấn luyện
quân đội ngày càng tinh nhuệ, và chủ trương của Trần Hưng Đạo là một chủ trương
rất tiến bộ mà giá trị câu nói của ông lúc sinh thời vẫn còn bất diệt với non
sông, đó là “binh quý hồ tinh bất quý hồ đa”, nghĩa là “binh quý ở chỗ tinh nhuệ
chứ không phải ở số đông”. Chủ trương đó thật sự đúng đắn, đã phát huy được tác
dụng to lớn trong sự nghiệp bảo vệ độc lập thế kỷ XIII
Nghệ thuật quân sự trong cuộc kháng chiến chống quân Mông-
Nguyên là đỉnh cao của nghệ thuật chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc của dân tộc
ta trong thời đại phong kiến. Người đề ra và vận dụng thiên tài chiến lược, chiến
thuật chiến tranh nhân dân đó không ai khác là Hưng Ðạo Ðại Vương Trần Quốc Tuấn.
Lần đầu tiên trong lịch sử đấu tranh vũ trang của dân tộc ta, đã xuất hiện hình
thái thế trận của dân chúng đánh giặc ở khắp các xóm làng, kết hợp chiến đấu của
quân triều đình với quân các lộ và dân binh, tiêu diệt địch trong những trận lớn,
xây dựng một thế trận rộng mà sâu, mạnh mà vững, luôn luôn chủ động, luôn luôn
tiến công, tạo nên sức mạnh to lớn, chiến thắng quân thù.
Trần Hưng Đạo đã khai thác hết mọi tài năng của con người, kể
cả những người ở tầng lớp gia nô. Chính ông đã có lời nói về hành động của Yết
Kiêu và Dã Tượng khi mà những người này bộc lộ lòng trung thành lớn lao và đức
hy sinh cao cả. Ông nói: “Chim hồng chim hộc sở dĩ bay cao bay xa là nhờ vào 6
trụ xương cánh. Nếu không có 6 trụ xương cánh thì chim hồng chim hộc cũng chỉ
là chim thường thôi”.
Sau khi đã biên soạn binh pháp, thì trong huấn luyện quân đội,
Trần Hưng Đạo đã tìm đủ mọi cách để kích lệ tinh thần của quân sĩ, và tác phẩm
nổi bật nhất của ông trong lĩnh vực này chính là bài “Hịch Tướng Sĩ Văn”.
Năm 1300, Hưng Đạo Vương trước lúc lâm chung vẫn còn dâng
vua Trần Anh Tông kế sách giữ nước, rằng: "Quân giặc cậy vào trường trận,
quân ta cậy vào đoản binh, đem đoản binh đánh lại trường trận là việc thường
trong binh pháp. Nhưng cần phải xét: Nếu thấy quân giặc tràn sang như gió như lửa,
thì thế giặc có thể dễ dàng chống cự được; nếu giặc dùng cách chiếm cứ dần, như
tằm ăn dâu, không vơ vét của dân, không mong đánh được ngay, thì ta phải dùng
tướng giỏi, phải xem xét tình thế biến chuyển như người đánh cờ tùy thời cơ mà ứng
biến cho đúng, làm thế nào thu hút được binh sĩ, như cha con một nhà mới có thể
dùng để chiến thắng được. Phải khoan thư sức dân để làm cái kế sâu rễ bền gốc,
đó là thượng sách giữ nước vậy".
Do công lao to lớn của mình Trần Hưng Đạo được vua Trần
phong là Quốc Công Tiết Chế Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương hay là Đức Thượng Từ.
Vua Trần Anh Tông phong ông là Đức Thượng Phụ Thượng Quốc Công Bình Bắc đại
nguyên soái Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương. Tên tuổi của Hưng Đạo Vương
vang lừng không chỉ trong nước mà còn lan ra toàn thế giới.
Với tài năng chính trị và quân sự kiệt xuất, với tấm lòng tận
trung với nước, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cùng với quân dân và triều
đình nhà Trần đã bảo vệ vững chắc độc lập, đưa nước Đại Việt đạt đến đỉnh cao của
nền thịnh trị thời phong kiến và có uy tín lớn trong vùng. Công lao to lớn này
đã đưa Trần Quốc Tuấn lên hàng một thiên tài kiệt xuất, một anh hùng dân tộc vĩ
đại.
Tháng 2 năm 1984 tại Hội đồng khoa học Hoàng gia Anh ông được
bầu chọn trong danh sách 10 vị tướng vĩ đại nhất của thế giới.
Năm 2013, Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch Việt Nam đã ghi tên
ông trong danh sách 14 vị anh hùng tiêu biểu nhất trong lịch sử Việt Nam
Tài liệu tham khảo
1. Trần Hưng Đạo – Nhà quân sự
thiên tài, Nxb. Chính trị quốc
gia – Sự thật
2. Đại
Việt sử ký toàn thư, tập II, Bản dịch của Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1998.
3. Viện
sử học.
Sưu tầm và biên soạn
TRẦN
THỊ THỦY
BQL Khu Di tích LS- VH Đền Trần , Chùa Tháp-TP. Nam Định