Suốt mấy nghìn năm
dựng nước và giữ nước, đoàn kết luôn là cội nguồn sức mạnh bảo đảm thắng lợi
của dân tộc. Quốc công tiết chế Hưng đạo đại vương Trần Quốc Tuấn từng nói: “Lúc hoạn nạn thì cùng nhau sống chết, lúc
nhàn hạ thì cùng nhau vui cười”. Ngài cho rằng, nước Đại Việt chiến thắng
là nhờ “vua tôi đồng lòng, anh em hòa
mục, cả nước đấu sức lại”, “phải đồng lòng như cha con một nhà”, “phải tự lúc bình thì khoan sức cho
dân, để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là cái thuật giữ nước hay hơn cả”.
Kỷ niệm 724 năm ngày hóa của Đức Thánh Trần là dịp để ôn lại
lịch sử, những tư tưởng và bài học điển
hình về lòng dân, sức dân, thân dân, dân là gốc… Tư tưởng và hành động của Ngài
là một trong những cội rễ không chỉ góp phần quyết định những chiến công vang
dội chống giặc ngoại xâm, bảo vệ nguyên vẹn bờ cõi của dân tộc mà còn làm rực
sáng và vẻ vang một nền chính trị quân chủ nhân nghĩa, thân Dân của triều đại
nhà Trần trong toàn bộ dòng chảy tư tưởng chính trị Việt Nam.
Triều đại nhà Trần ghi nhiều dấn ấn đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông
Nguyên ở thế kỷ XIII. Ngoài những chiến công hiển hách với nhiều trận đánh dành
thắng lợi vang dội…, nhà Trần còn có một động thái chưa từng có tiền lệ, ngay
trong chế độ quân chủ tập quyền: Mở một hội nghị mang tính dân chủ - đó chính
là Hội nghị Diên Hồng.
Vào nửa đầu thế kỷ XIII, độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của nước ta bị uy hiếp nghiêm trọng bởi âm mưu thôn
tính, xâm lược của đế quốc Mông - Nguyên. Khi ấy, những đạo kỵ binh
viễn chinh Mông Cổ đã chinh phục, nô dịch nhiều nước từ châu Âu đến châu
Á. “Giấc mơ” một đế quốc Mông - Nguyên rộng lớn từ bờ Hắc Hải đến bờ
Thái Bình Dương được giai cấp quý tộc phong kiến Mông Cổ từng bước
thiết lập. Tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta, đế quốc Mông - Nguyên
coi Đại Việt nhỏ bé chỉ là “bọ ngựa” trước cỗ xe xâm lược khổng lồ
của chúng. Sứ giả Mông Cổ ngang nhiên đòi vua nhà Trần phải mở đường
cho chúng đi qua để thôn tính các nước khác ở Đông Nam Á.
Năm 1279, quân Mông Nguyên
đánh úp quân Tống ở Nhai Sơn (thuộc Quảng Đông, Trung Quốc). Quân Tống thua
trận, Tả thừa tướng nhà Tống là Lục Tú Phu cõng Vua Tống nhảy xuống biển tự vẫn;
hậu cung cùng quan lại, binh lính chết theo rất nhiều, theo sử sách ghi có đến
mấy vạn người. Nhà Tống bị diệt vong. Ngọn lửa chiến tranh đang cận kề biên
giới Đại Việt.
Năm 1281, Vua Trần Nhân
Tông từ chối lệnh vào chầu của Vua Nguyên, cử chú họ là Trần Di Ái và Lê Mục,
Lê Tuân đi sứ nhà Nguyên. Nhà Nguyên lập Di Ái là lão hầu, Lê Mục là hàn lâm
học sĩ, Lê Tuân là thượng thư; đồng thời sai Sài Xuân đem cả nghìn binh lính hộ
tống nhóm này về Đại Việt. Động thái này của nhà Nguyên nhằm đe dọa Vua nhà
Trần là nếu không nghe lời (đầu hàng) thì chúng sẽ lập vua và bộ máy cai trị
Đại Việt mới.
Tháng 10/1282, nhà vua mở
Hội nghị Bình Than nhằm họp tướng lĩnh, các nhà quý tộc, quan lại bàn kế giữ
nước và phân công nhiệm vụ trấn giữ các khu vực trọng yếu. Trước đó, Vua phục
chức Phó tướng cho Trần Khánh Dư, một tướng tài bị phạt đòn và giáng chức trước
đó.
Tháng 7/1283, Thái tử
Nguyên là A Đài và Bình chương A Lạp tập hợp 50 vạn quân ở xứ Hồ Quảng chuẩn bị
chiến tranh xâm lược Đại Việt. Đến tháng 10, Vua Trần Nhân Tông phong cho Trần
Quốc Tuấn là Quốc công tiết chế thống lĩnh chư quân; đồng thời cho tập trận với
cả quân thủy lẫn quân bộ.
Tháng 8/1284, Trần Quốc
Tuấn điều động các Vương hầu để đại duyệt binh ở bến Đông, phân công nắm giữ
các vị trí trọng yếu. Trong thời gian này, vị tổng chỉ huy quân đội nhà Trần
viết Hịch tướng sĩ nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước của các tướng lĩnh, những
nhân vật trọng yếu trong chiến tranh. Lời hịch mạnh mẽ có tính khơi gợi, thúc
giục và tính cảnh báo, răn đe trước họa mất nước: “Nay ta bảo thật các
ngươi: nên lấy việc "đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ" làm nguy; nên lấy
điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" làm sợ. Phải huấn luyện quân
sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy đều giỏi như Bàng Mông, mọi người đều
tài như Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, làm rữa thịt Vân
Nam Vương ở Cảo Nhaị…” (Hịch tướng sĩ – Trần Quốc Tuấn)
Đến tháng 12/1284, nhà
Trần nắm được tin báo về từ nước Nguyên: Vua Nguyên sai Thái tử là Trấn Nam
Vương Thoát Hoan, Bình chương là A Lạt và bọn A Lý, Hải Nha mang quân lấy cớ
mượn đường đi đánh Chiêm Thành để xâm lược nước ta.
Chỉ sau khi nhận tin giặc
đã khởi động chiến tranh, Thượng hoàng Trần Thánh Tông cho mở Hội nghị Diên
Hồng, mời các vị bô lão trong nước họp, hỏi kế sách giữ nước và cho ý kiến về
chủ trương chiến đấu hay hàng giặc. Tại Hội nghị, Thượng hoàng đích thân ban
yến tiệc cũng như hỏi ý kiến các vị bô lão: “nên đánh hay nên hòa?”
Một đời thân phận thấp hèn,
tay bùn chân lấm, nay bỗng dưng được triều đình mời vào tận Hoàng cung để bàn
việc “quốc gia đại sự”, tinh thần của các vị bô lão phấn chấn khác thường. Sách
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Các cụ bô lão đều nói đánh, muôn người cùng
một tiếng, muôn lời như bật ra từ một miệng”
Tranh vẽ cảnh các bô lão
trong Hội nghị Diên Hồng.
Về cuộc hội nghị độc đáo này, sử thần Ngô Sỹ Liên có lời
bàn như sau: “Giặc Hồ (giặc Mông Nguyên) vào cướp là nạn lớn của đất nước.
Hai Vua hiệp mưu, bầy tôi họp bàn, há lại không có kế sách gì chống giặc mà
phải đợi ban yến rồi hỏi kế sách ở các bô lão hay sao? Ấy là bởi Thánh Tông
muốn làm thế để xét lòng thành ủng hộ của dân và cũng để dân nghe lời dụ hỏi mà
cảm kích rồi hăng hái lên thôi. Đó là giữ được cái nghĩa của cổ nhân, kính
dưỡng người già để xin lời hay vậy ...”
Trong tình thế chiến tranh, nhà Trần đã chuẩn bị rất kỹ để chuẩn
bị bước vào cuộc chiến khốc liệt, như đã họp bàn mưu kế ở hội nghị Bình Than,
phân công nhiệm vụ cho tướng lĩnh, tập trận, duyệt binh, ra lời hiệu triệu chư
tướng… Hội nghị Diên Hồng là bước chuẩn bị cuối cùng: Tìm sự ủng hộ của nhân
dân. Đây cũng là dịp nhà Vua truyền đạt những tư duy kháng chiến có thể nói là
rất đặc thù của Việt Nam: Toàn dân chống giặc. Trong thời kỳ Ngô Quyền,
việc cắm cọc nhọn trên sông Bạch Đằng có sự giúp đỡ của người dân thường. Thời
nhà Lý, đông đảo người dân cũng góp phần xây dựng chiến lũy sông Như Nguyệt…
Dưới thời nhà Trần, sự “hợp đồng tác chiến” giữa triều đình và nhân
dân được nâng cao lên một bậc. Nhà Trần, ngoài quân đội của triều đình còn có
quân của các quý tộc, như quân của Trần Quốc Toản, của dân binh cả miền xuôi và
miền ngược dưới một sự chỉ huy thống nhất. Người dân cũng tham gia làm hệ thống
cọc nhọn trận chiến sông Bạch Đằng… Nhân dân đã đồng lòng trong mọi chủ trương
kháng chiến của triều đình, như việc thực hiện kế “thanh
dã” (vườn không nhà trống) khiến giặc cướp được đất nhưng không cướp được
lương thực. Quân Mông Nguyên điều động nhiều tướng giỏi với 50 vạn quân tràn từ
biên giới phía Bắc xuống và từ mạn Nam ra (đội quân của Toa Đô đi đánh Chiêm Thành
3 năm trước đó) với thế công hung hãn. Quân đội nhà Trần buộc nhiều lần phải
lui binh, trong đó có lần từ Thiên Trường về Thanh Hóa tránh kìm kẹp của giặc
trong mối hiểm nguy gang tấc. Những đợt lui binh và ẩn thân đó chắc chắn phải
được nhân dân che chắn, giữ bí mật và cung cấp thêm lương thảo.
Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ
2, trong Nguyên sử có ghi: “...Quân nhà Trần càng đánh càng đông...” Đây là chi tiết chứng tỏ người dân nghe lời
hiệu triệu của triều đình sẵn sàng tòng quân giết giặc. Bởi thế, trong ngày đầu
kháng chiến ác liệt, vua Trần Nhân Tông mới có lời thơ tự hào và cũng là tự
động viên mình, cùng động viên tướng sĩ:
“Cối
Kê cựu sự quân tu ký
Hoan
Diễn do tồn thập vạn binh”
(nhắc lại chuyện cũ
thời Xuân Thu Chiến quốc khi Việt Vương Câu Tiễn thất trận, chỉ còn một nghìn
quân, lui về Cối Kê ẩn nhẫn mà còn đánh bại được Ngô vương Phù Sai... So sánh
với hiện tại, Vua Trần Nhân Tông ngoài các đạo quân đang tham chiến ở mạn Đông
Bắc, vẫn còn mười vạn quân ở Châu Hoan, Châu Diễn). Có niềm tin vào sức mạnh
dân tộc, có niềm lạc quan tất thắng)
Hội nghị Diên Hồng là hình
thức Hội nghị đại biểu nhân dân đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, một
nhân tố quan trọng để giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống quân Mông
Nguyên vào thế kỷ thứ XIII. Cùng với các hoạt động chuẩn bị kháng chiến về mặt
Quân sự, các hoạt động như Hội nghị Diên Hồng đã khơi dậy được lòng yêu nước
truyền thống của dân tộc, từng bước biến quyết tâm kháng chiến của triều đình,
giới vương hầu quý tộc thành quyết tâm kháng chiến của các bô lão và của toàn
dân.
Hội nghị Diên Hồng có tác dụng thăm dò cũng như xác định mức độ
căm phẫn của nhân dân đối với kẻ thù. Từ đó có thể nhận ra được mức độ nhân dân
ủng hộ chính quyền. Qua đó đo lường được nội lực, sức mạnh của quân và dân ta
trước khi vạch ra chiến lược chiến tranh.
Không những thế, hội nghị Diên Hồng còn có tác dụng đoàn kết
nhân dân cả nước. Củng cố và làm lớn mạnh mối quan hệ nhân dân – chính quyền.
Cho thấy dù người dân có địa vị thấp nhưng tiếng nói và sức mạnh của họ vẫn
được triều đình trọng dụng
Hội nghị tôn trọng bô lão - tầng lớp có sức ảnh hưởng lớn trong
xã hội thay thế chính quyền - làm người tuyên truyền phổ biến đường lối, chủ
trương của bậc quân vương. Được các bô lão đả thông tư tưởng, quần chúng nhân
dân tự nguyện cống hiến cho Nhà nước. Từ đây tạo ra sự đồng thuận cao trong xã
hội.
Đây cũng là công cụ đắc lực trong việc nắm lòng dân, củng cố
thêm sức mạnh cầm quyền của Vua nhà Trần. Hội nghị giống như hội nghị của nhân
dân, nơi mà nhân dân được đóng góp ý kiến vào vận mệnh tương lai của mình. So
với việc sống dưới chân thiên tử, tính mạng do Vua quyết định thì để họ tự bảo
vệ chính mình bằng con đường đứng lên kháng chiến sẽ khiến dân chúng phấn khởi
hơn.
Thực tế, trong 3 cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên, thắng
lợi vang dội của nhà Trần là thắng lợi của toàn quân, toàn dân. Đó là nhờ chính
sách trọng dân, tinh thần dân chủ của nhà Vua, của triều đình mà thể hiện đỉnh
cao, rõ nhất là ở hội nghị Diên Hồng, nơi các bô lão nói riêng, người dân nói
chung được bày tỏ ý kiến và thể hiện lòng yêu nước nồng nàn của mình. Hội nghị
giống như lời hiệu triệu của cả dân tộc, thể hiện tinh thần đoàn kết, tinh thần
yêu nước và ý chí không khuất phục trước bất cứ kẻ thù nào.
Hội nghị Diên Hồng là một sáng
tạo rất độc đáo của nhà Trần, là biểu hiện của ý thức tin tưởng vào sức mạnh và
trí tuệ của toàn dân. Kể từ đó hai chữ Diên Hồng đã trở thành biểu trưng cho ý
chí thống nhất của một dân tộc, thể hiện sự đồng lòng nhất trí giữa Nhà nước
với người dân trong mối quan hệ Vua - tôi, trên - dưới... Hội nghị Diên Hồng
cũng mang ý nghĩa như một nguyên lý tạo nên sức mạnh dân tộc trước những thử
thách của lịch sử và trong chừng mực nào đó cũng biểu hiện nhân tố cận dân,
thân dân.
Trong Cách mạng Tháng Tám 1945,
một lần nữa tinh thần của Hội nghị Diên Hồng lại được thể hiện tại Quốc Dân đại
hội họp ở Tân Trào (Tuyên Quang), với sự có mặt của đông đảo đại biểu đến từ
nhiều địa phương của cả nước, để từ đó ban hành lệnh tổng khởi nghĩa, làm lễ
xuất quân, thành lập Ủy ban Giải phóng dân tộc trên cơ sở cương lĩnh của Mặt
trận Việt Minh nhằm mục tiêu giành độc lập dân tộc và lập nên Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa.
Thế hệ những người làm nên cuộc cách mạng này hẳn đều được sống
trong hào khí của những ngày tiền khởi nghĩa, những âm thanh gợi lại trang sử
hào hùng của ông cha, trong đó có ca khúc Hội nghị Diên Hồng của nhạc sĩ Lưu
Hữu Phước cùng nhóm cộng sự của mình (Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ). Ca từ “Trước
nhục nước nên hòa hay nên chiến? - Quyết chiến!/Thế nước yếu lấy gì lo chiến
chinh? - Hi sinh!”. Và hình ảnh tượng trưng cho cuộc tổng khởi nghĩa diễn
ra tại Bắc bộ phủ cũng gắn liền với một công viên phía trước ngay từ ngày đó đã
được đặt tên là Vườn hoa Diên Hồng.
Rồi trong thời kỳ tiến hành kháng chiến chống Mỹ cứu nước, âm
hưởng của bài hát này một lần nữa lại vang lên trên các đô thị ở miền Nam trong
các cuộc xuống đường đấu tranh đòi thống nhất đất nước và chống sự can thiệp
của các thế lực ngoại bang.
Ngay cả trong thử thách của đời
sống gia đình, dòng họ, doanh nghiệp..., đứng trước những khó khăn cần đến sự
đồng thuận của mọi thành viên, dù nói ra thành lời hay không thì tri thức về
“Hội nghị Diên Hồng” cũng trở thành một ý niệm trong tâm thức của mọi người về
sức mạnh đoàn kết, nhân tố để vượt qua mọi khó khăn thử thách.
Giờ đây, tên gọi “Phòng họp Diên
Hồng” được đặt cho hội trường trung tâm dành tổ chức các phiên họp toàn thể
trong Tòa nhà Quốc hội, ý niệm về một “Hội nghị Diên Hồng” của thời Trần hơn bảy
thế kỷ trước đã trở nên gần gũi với ý niệm về dân chủ, về một nhà nước “của
dân, do dân và vì dân” của xã hội hiện đại.
Phòng
họp Diên Hồng hay còn gọi là phòng họp chính - nơi diễn ra các phiên họp toàn
thể của Quốc hội để bàn thảo, quyết định những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn
của Quốc hội.
Lòng dân là sức mạnh nội
sinh của mỗi quốc gia, dân tộc. Với quan điểm nhất quán: lòng dân là bức tường
thành vững chắc nhất trong sự nghiệp giữ nước của dân tộc, nhà Trần đã phát huy
cao nhất sức mạnh từ nhân dân - sức mạnh lòng dân - nhờ đó đã ba lần đánh bại
đạo quân xâm lược Mông - Nguyên hùng mạnh nhất bấy giờ, bảo vệ vững chắc nền độc lập, tự chủ của nước
nhà.
Ngày nay, xây dựng đất nước trong thời bình, điều này
càng cần hơn bao giờ hết. Vì thế, chúng ta phải thực hiện tốt chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng, củng cố
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Tiếp
tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng
thuận xã hội, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, niềm
tin, khát vọng cống hiến và xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc;
góp phần thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát
triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành
nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
Hơn 700 năm đã đi qua, hậu thế hôm nay vẫn
luôn nhớ và tỏ lòng kính trọng, khâm phục tiền nhân bởi tinh thần dân chủ của
Hội nghị Diên Hồng. Mãi mãi “Hội nghị Diên Hồng” sẽ ăn sâu và trao truyền
trong tâm thức của người dân Việt Nam như một sức mạnh của truyền thống gắn
liền với mục tiêu phấn đấu cho nền dân chủ hiện đại.
Sưu tầm, biên tập
Vũ Thị Tuyết Mai
BQL khu DTLSVH Đền Trần – Chùa Tháp TP Nam Định
Tài liệu
tham khảo:
- Đại Việt sử ký
toàn thư, Tập I, NXB Văn học:
- Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập II, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.