ĐỨC VUA- PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP ĐẶC SẮC CHO NHÂN LOẠI
Hướng tới kỷ niệm 712 năm ngày Phật Hoàng Trần Nhân Tông Nhập niếp
bàn, ngày 03/11/ Canh Tý ( ngày 16/12/2020), tác giả xin sưu tầm, biên tập lại
một số đóng góp nổi bật của Đức vua- Phật Hoàng Trần Nhân Tông gửi tới bạn đọc.
Đức vua Trần Nhân Tông lên ngôi năm 20 tuổi (1278), năm 35 tuổi
nhường ngôi cho con và làm Thái thượng hoàng (1293), năm 40 tuổi (1298) lên Yên
Tử đi tu, năm 50 tuổi thì mất (1308). Trong thời gian ông làm vua, Việt Nam
phải hai lần chống trả đại quân xâm lược của Nguyên – Mông (1285 và 1288). Với
tư cách là người đứng đầu triều đình, ông hiểu rõ sự gian khổ và quật cường của
nhân dân mình, đồng thời thấy rõ và thực hiện được trách nhiệm của người làm
vua. Ý thức trách nhiệm này được thể hiện ngay cả khi ông là nhà tu hành. Chỉ
có khác là ở hoàn cảnh biểu hiện mà thôi.
Trong giai đoạn làm vua thì biểu hiện đó là trách nhiệm của con
người trần thế, trong giai đoạn đi tu thì đó là trách nhiệm của con người tu
hành còn mang nặng việc đời.
Tượng
Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn tại chùa Phổ Minh (Nam Định)
Trong thời kì làm vua, Trần Nhân Tông là con người quyết
đoán, có nhiều sáng tạo trong tư duy và hành động. Khi giặc tiến đánh Thăng
Long, ông không cố thủ với thành mà cùng vua cha rút ra khỏi kinh thành rồi tổ
chức lực lượng đánh lại. Ông đã cùng với vua cha tổ chức nên hai cuộc hội nghị
chưa từng có trong lịch sử, đó là hội nghị các tướng lĩnh ở Bình Than bàn mưu
kế đánh giặc, và hội nghị các bô lão có thế lực trong cả nước ở điện Diên Hồng,
Thăng Long để tạo nên một ý chí, một khí thế quyết chiến. Tố chất quyết đoán và
sáng tạo đó đã giúp ông tạo nên những nét mới trong thiền phái của mình.Việc
thiên hạ, việc đất nước thực sự vẫn còn tác động đến ông trong lúc ông đã ngả
về phía tu hành theo đạo Phật.
Bên cạnh vấn đề giang sơn đất nước, Trần Nhân Tông còn đặt nặng
vấn đề đạo làm người. Khách quan mà nói, là Phật tử, Trần Nhân Tông phải nói
tới đạo làm người của Phật giáo, như nói: “dứt trừ nhân ngã”, “hết tham sân”,
“biết chân như”, “tin bát nhã”, v.v… Hoặc nói người Phật tử phải bắc cầu cho
người sang sông, chở đò cho người tới bến, phải biết hi sinh thân mình để cứu
vớt người khác, phải biết từ bi tế độ, “dựng cầu đò, giồi chiền tháp, ngoại
trang nghiêm sự tướng hãy tu; săn hỷ xả, nhuyễn từ bi, nội tự tại kinh lòng
hằng đọc”, v.v… Đó là những nguyên tắc làm người cao cả của Phật giáo mà con
người trong xã hội cần thiết phải tuân theo. Nhưng ông không quên đưa đạo làm
người của Nho giáo, một đạo làm người mang tính nhập thế vào trong tư tưởng của
ông.
Từ trong Nho giáo, ông lưu ý con người phải coi trọng thái độ đối
với vua, với thầy học và với cha (quân, sư, phụ). Ông nói: “Ngay thờ chúa, thảo
thờ cha, đi đỗ mới trượng phu trung hiếu”, “Học đạo thờ thầy, dọt xương óc chưa
thông của báo” (tức chưa báo đáp được), “vâng ơn thánh, xót mẹ cha, thờ thầy
học đạo”. Ngoài ra ông còn nhấn mạnh vai trò của tư tưởng nhân nghĩa đối với
con người. Ông nói: “Dầu hay mến thửa nhân nghì (nhân nghĩa), ba phiến ngói yêu
hơn lầu gác” (Cư trần lạc đạo phú. Hội thứ hai), “Tích nhân nghì, tu đạo đức,
ai hay này chẳng Thích Ca” (Cư trần lạc đạo phú. Hội thứ tư). Tư tưởng nhân
nghĩa của Nho giáo ở đây đã trở thành một phạm trù của đạo đức Phật giáo, của
Thích Ca!
Đạo đức từ bi của Phật giáo và đạo đức tông pháp của Nho giáo vốn
là hai lĩnh vực có tính chất khác nhau, nhưng tư tưởng nhập thế của ông đã
khiến cho hai loại đạo đức đó nhập lại làm một, ở đó không những không chống
đối nhau mà còn hỗ trợ cho nhau để trở thành một đạo đức hoàn thiện, cần thiết
cho con người lúc bấy giờ.
Để người đương thời chấp nhận tư tưởng của mình, Trần Nhân Tông
chủ trương hướng tới cái thực tế, xa lánh cái siêu hình. Những gì mang tính
chất siêu hình, dù đó là cái cao siêu có ích cho tư duy con người của Phật
giáo, ông cũng bỏ qua, cho rằng không cần phải khổ công ghi nhớ. Chẳng hạn
trong các kinh Phật hay dùng bốn câu: khẳng định, phủ định, phức khẳng định,
phức phủ định để phân loại hình thức của các pháp, hoặc giải thích các loại
nghĩa lí, gọi là “hữu cú”, “vô cú”, hoặc “tứ cú phân biệt”, ông đều cho đó là
phiền phức, vô căn cứ và vô ích. Nhận thức này giúp sự truyền đạt chú trọng thực
tế của ông dễ đi được vào lòng người.
Đương thời có một số nhà Phật học có thế lực, muốn tạo ra
một khuynh hướng mới trong tập thiền và truyền thiền, như Trần Thái Tông, Tuệ
Trung Thượng Sĩ, nhưng họ không làm được. Trần Thái Tông thì chưa tạo được nét
riêng, Tuệ Trung Thượng Sĩ thì quá tự do, phóng khoáng, ít người theo kịp. Chỉ
có Trần Nhân Tông với xu hướng nhập thế của mình, đã đáp ứng được yêu cầu của
đương thời, nên nhiều người tin theo và trở thành một Thiền phái.
Vua Trần Nhân Tông đã sống cuộc đời oanh liệt và
hoành tráng, có những đóng góp to lớn và thiết thực cho dân tộc và Phật giáo.
Từ nhỏ vua Trần Nhân Tông đã quan tâm đến Phật giáo, nhưng khi lên nắm chính
quyền, vấn đề đầu tiên là phải bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và nền độc lập của
tổ quốc. Vì thế, có thể dễ dàng thấy rằng vua Trần Nhân Tông phải tập trung suy
nghĩ những vấn đề chính trị, kinh tế, ngoại giao và quân sự của đất nước. Phải
đưa ra được một sách lược tổng quát để có thể chiến thắng trong cuộc chiến đấu
với kẻ thù. Trong các đội quân tiến đánh quân Nguyên của vua Trần Nhân Tông có
những người thuộc dòng dõi thân vương như Trần Quang Khải, Trần Hưng Đạo, Trần
Quốc Tung ; có những người xuất phát từ dân thường như Phạm Ngũ Lão, Nguyễn
Khoái ; nhưng cũng có những người là nô tỳ như Yết Kiêu, Dã Tượng; có những
người còn rất trẻ như Trần Quốc Toản, nhưng cũng có những người rất già như các
vị bô lão tham gia hội nghị Diên Hồng với tiếng hô “quyết chiến”; có những
người thuộc các dân tộc thiểu số, như Hà Đặc, Hà Chương, có những đạo sĩ ngoại
quốc như Hứa Tông Đạo, thậm chí có những người là tướng tá của kẻ thù như
Trương Hiển, có được một sự tập hợp rộng rãi các thành phần dân tộc khác nhau
như thế phải xuất phát từ một chính sách đoàn kết rộng lớn. Nhưng chính sách
đoàn kết này chỉ có thể thực hiện được, khi người dân và người lãnh đạo đất
nước có cùng chung một quyền lợi để bảo vệ và một đối tượng để chiến đấu.
Dòng thiền Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông thành lập đã có những
tác động to lớn đối với lịch sử dân tộc và Phật giáo và được kế thừa liên tục
thậm chí cho đến ngày nay. Đây không những là một dòng thiền do một người Việt
Nam sáng lập, mà dòng thiền này còn có những điểm đặc biệt về học lý và thực
tiễn tu tập
Tại trường đại học Harvard, Mỹ, Học viện Trần Nhân Tông đã long
trọng tổ chức lễ trao Giải thưởng quốc tế mang tên Trần Nhân Tông. Đây là lần
đầu tiên một giải thưởng tầm vóc quốc tế được mang tên một nhân vật lịch sử
Việt Nam độc đáo, đại diện cho tính minh triết và lòng nhân ái, được trao công
khai trong một môi trường quốc tế tập trung các nhân sĩ trí thức danh giá của
Hoa Kỳ và thế giới. Thúc đẩy, ứng
dụng những tư tưởng nhân ái, giàu trí tuệ của Phật hoàng Trần Nhân Tông vào
cuộc sống, quảng bá những giá trị tư tưởng và sự nghiệp vĩ đại của Trần Nhân
Tông trên toàn thế giới. Giải thưởng Trần Nhân Tông được trao tặng thường niên
cho những người có đóng góp xuất sắc trong sự nghiệp hòa giải, yêu thương và
hướng thiện trên thế giới. Như vậy tư tưởng nhân ái và đoàn kết của vua Trần
Nhân Tông đã vượt ra ngoài phạm vi quốc gia vươn tầm ra thế giới.
Người sưu tầm, biên soạn
Vũ Thị Hoàng Lan
Ban QLDT Lịch sử- Văn hóa Đền Trần, Chùa Tháp.
Tài liệu tham khảo:
-Đại Việt sử kí toàn thư, tập II, Nxb. KHXH, HN, 1993
-Tạp chí nghiên cứu tôn giáo số 11-2009